BẢN BÁO CÁO BỊ THỦ TƯỚNG CẤM CÔNG BỐ
Sep 11, 2012
Quan Làm Báo
Quanlambao - Chúng tôi xin lần lượt gửi đến độc giả Bản báo cáo của Uỷ Ban giám sát tài chính Quốc gia do Tiến Sĩ Vũ Viết Ngoạn Nguyên Tổng giám đốc của ViệtCombank làm Trưởng ban đã bị Thủ Tướng CẤM công bố: (Chúng tôi sẽ chia thành nhiều kỳ)
-->
PHẦN 1
Sau một năm phục hồi khá
ấn tượng, bước vào 2011, kinh tế thế giới rơi vào tình trạng bất ổn nghiêm
trọng. Khủng hoảng nợ công Châu Âu đang vượt khỏi tầm kiểm soát. Bất ổn chính
trị bùng nổ tại các nước Trung Đông và Bắc Phi. Thảm họa thiên nhiên gây tổn thất
nặng nề cho kinh tế thế giới. Chính phủ nhiều nước đồng loạt đưa ra các gói
kích thích kinh tế và hạ giá đồng nội tệ. Lạm phát tăng cao trên phạm vi toàn
cầu. Ở các nền kinh tế phát triển, sản xuất đình đốn, thất nghiệp tăng cao. Lòng
tin của thị trường vào hệ thống chính sách suy giảm khiến thị trường tiền tệ
biến động phức tạp, thị trường chứng khoán giảm sâu và giá vàng biến động mạnh,
đạt mức cao kỷ lục, từ mức 1.318,4
USD/Ounce cuối tháng 1/2011 lên trên 1.923 USD/Ounce vào cuối tháng 8/2011,
đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến các nền kinh tế mới nổi,
nơi đang phải đối phó với lạm phát gia tăng.
Tình trạng khó khăn kéo dài của kinh
tế thế giới đã tác động mạnh đến kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam thông
qua kênh thương mại và đầu tư. Kinh tế Việt Nam năm 2011 đối mặt với tình trạng
lạm phát cao, tăng trưởng chậm. Vốn đăng ký FDI vào Việt Nam năm 2011 sụt mạnh,
chỉ đạt 14,7 tỷ USD, giảm tới 26% so với năm 2010, cho thấy tiềm năng thu hút vốn của Việt Nam gặp nhiều thách
thức. Ngoài yếu tố khách quan thì nguyên nhân chính vẫn là yếu tố nội tại kém
cạnh tranh của nền kinh tế (lợi thế cạnh tranh từ lao động giá rẻ ngày càng
giảm trong khi cơ sở hạ tầng yếu kém, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ). Bên cạnh
đó, giá
vàng biến động khó lường tác động tiêu cực tới thị trường tài chính Việt Nam
do: (i) lượng vàng dự trữ lớn trong dân gây lãng phí nguồn lực tài chính cho phát
triển kinh tế; (ii) giảm năng lực thu hút và dẫn vốn của ngân hàng cho nền kinh
tế; (iii) ảnh hưởng tới sự ổn định của cán cân thanh toán quốc tế và làm trầm
trọng thêm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
Để
giảm thiểu tác động bất ổn của kinh tế thế giới và vượt qua khó khăn, thách thức
của kinh tế trong nước, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11
với một hệ thống chính sách theo hướng thắt chặt chính sách tài khóa và thực
hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mô. Kết quả là tốc
độ tăng GDP năm 2011 của Việt Nam đạt 5,89%. Mặc dù tăng trưởng kinh tế
thấp hơn năm 2010 và thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch nhưng đã có sự chuyển
biến tích cực như GDP tăng dần qua các quý (Quý 1: 5,57%; Quý 2: 5,68%;
Quý 3: 6,07% và Quý 4: 6,10%). Đây là một kết quả đáng khích lệ do nền
kinh tế gặp nhiều khó khăn hơn so với năm 2010 ở cả đầu vào và đầu ra
như chi phí nguyên vật liệu, năng lượng và lãi suất tăng cao, doanh
nghiệp khó tiếp cận vốn vay, tiêu dùng trong nước tăng thấp (tăng 4,1%
so với mức 14% năm 2010).
Với
định hướng thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát, Ngân
hàng nhà nước đã nỗ lực kiểm soát tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng ở mức
rất thấp. Tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 10% (chỉ tiêu là khoảng
15-16%) và tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng 12% (chỉ tiêu là dưới 20%)[1].
Đây có thể coi là yếu tố quyết định đưa chỉ số lạm phát tính theo tháng kể từ
quý 3 xuống dưới 1%, thậm chí dưới 0,5% (vào tháng 10 và tháng 11) và giúp cho
chỉ số giá CPI theo năm giảm từ 23,02% vào tháng 8 xuống còn 18,13% vào cuối
năm 2011.
Tuy
nhiên, việc cung tiền và tín dụng tăng trưởng ở mức rất thấp so với mục tiêu đề
ra trong Nghị quyết 11 đã gây ra nhiều rủi ro, tác động tiêu cực đối với nền
kinh tế. Đối với khu vực doanh nghiệp, hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ
gặp khó khăn lớn về vốn, đặc biệt là vốn lưu động do khó tiếp cận vốn vay ngân
hàng và lượng hàng tồn kho tăng mạnh. Chỉ số phát triển công nghiệp (chỉ tiêu
chủ chốt của kinh tế thực) lao dốc từ 12,3% vào tháng 2/2011 xuống còn 7% vào
cuối năm. Đối với thị trường tài sản, thắt chặt tiền tệ quá mức cũng khiến
cho thị trường BĐS tê liệt, thị trường chứng khoán đình trệ, tín dụng đen tăng
nhanh. Đối với khu vực ngân hàng, lãi suất luôn ở mức cao do căng thẳng
thanh khoản, nợ xấu và vốn điều lệ ảo. Tính đến 31/12/2011, nợ xấu của khu vực
ngân hàng tăng mạnh, khó dự báo về quy mô, ở mức 3,72%. Trong đó, tỷ lệ nợ nhóm
5 (nợ có nguy cơ mất vốn) chiếm tới 43,83% trong tổng nợ xấu, tương đương 10,28%
vốn chủ sở hữu của các TCTD. Đáng lưu ý là khả năng chống đỡ với rủi ro nợ xấu
của hệ thống ngân hàng cũng suy giảm mạnh trong bối cảnh nợ xấu gia tăng, tỷ lệ
dự phòng rủi ro/nợ xấu chỉ còn 86,38%, nhiều TCTD tỷ lệ dự phòng rủi ro/nợ nhóm
5 dưới 50%.
Chính
sách tiền tệ với đặc trưng sử dụng nhiều biện pháp, công cụ hành chính đã bộc lộ
những hạn chế sau: (i) quy định trần lãi suất tỏ ra kém hiệu quả do các TCTD sử
dụng nhiều biện pháp để “lách luật”, gây méo mó thị trường. Lãi suất huy động
phổ biến VND vượt trần 14%/năm ở nhiều ngân hàng nhỏ (16-17%/năm), lãi suất huy
động ngoại tệ lên tới 4 – 5%/năm (mức trần là 2%/năm); (ii) các quy định và giám sát hoạt động trên thị trường
liên ngân hàng còn nhiều “khe hở” tạo điều kiện cho các TCTD làm đẹp bảng cân đối
kế toán, gây nguy cơ rủi ro hệ thống; (iii) chính sách tỷ giá được điều hành
linh hoạt và theo hướng thị trường hơn, tuy nhiên, tính ổn định của tỷ giá chưa
bền vững, một phần do nhập siêu ở mức khá cao, cán cân vốn và tài chính
thặng dư chủ yếu nhờ nguồn vốn ngắn hạn (FII, vay LC của doanh nghiệp) và tỷ
giá chịu ảnh hưởng đáng kể của hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu
vàng, trong khi đó giá vàng quốc tế biến động phức tạp.
Thu
và chi ngân sách Nhà nước năm 2011 đều vượt dự toán nhưng kết quả đó một phần
do mức lạm phát cao và đồng tiền mất giá (so với dự báo ở thời điểm lập dự
toán ngân sách) mang lại. Ước cả năm 2011, tổng thu NSNN đạt 674,5 ngàn tỷ đồng,
tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010 và cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra
trong Nghị quyết 11/NQ-CP (7-8%) trong khi tổng chi NSNN ước đạt 796 ngàn tỷ đồng.
Bội chi NSNN giảm xuống còn khoảng 4,9%, thấp hơn kế hoạch đề ra là 5,3%.
Tuy nhiên, chính sách tài khóa còn tồn tại những mặt hạn
chế như: (i) bội chi ngân sách đã giảm, song vẫn ở mức cao, tạo áp lực cho CPI
trong những tháng đầu năm 2012; (ii) nợ công giảm không đáng kể tiếp tục là
thách thức của nền kinh tế; (iii) việc giảm thâm hụt ngân sách tiếp tục gặp nhiều
khó khăn do cắt giảm đầu tư công thực hiện chưa đồng bộ; (iv) các chính sách thuế
hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân gặp khó khăn trong điều kiện lãi suất cao, khó
tiếp cận vốn tín dụng dường như chưa đủ liều lượng để giúp thị trường tài sản hồi
phục. Như vậy, chính sách tài khóa vẫn chưa đóng vai trò tương xứng trong việc
giải quyết những vấn đề nội tại của nền kinh tế trong bối cảnh dư địa của chính
sách tiền tệ ngày càng bị thu hẹp. Do đó, cần có lộ trình thực hiện chính sách
tài khóa một cách linh hoạt, nhất quán, đặc biệt trong việc tái cấu trúc và cắt
giảm đầu tư công, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, tái cấu trúc và
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích mô hình đầu tư công – tư (PPP),..
nhằm lành mạnh hóa khu vực kinh tế Nhà nước.
-->
Thu
và chi ngân sách Nhà nước năm 2011 đều vượt dự toán nhưng kết quả đó một phần
do mức lạm phát cao và đồng tiền mất giá (so với dự báo ở thời điểm lập dự
toán ngân sách) mang lại. Ước cả năm 2011, tổng thu NSNN đạt 674,5 ngàn tỷ đồng,
tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010 và cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra
trong Nghị quyết 11/NQ-CP (7-8%) trong khi tổng chi NSNN ước đạt 796 ngàn tỷ đồng.
Bội chi NSNN giảm xuống còn khoảng 4,9%, thấp hơn kế hoạch đề ra là 5,3%.
Tuy nhiên, chính sách tài khóa còn tồn tại những mặt hạn
chế như: (i) bội chi ngân sách đã giảm, song vẫn ở mức cao, tạo áp lực cho CPI
trong những tháng đầu năm 2012; (ii) nợ công giảm không đáng kể tiếp tục là
thách thức của nền kinh tế; (iii) việc giảm thâm hụt ngân sách tiếp tục gặp nhiều
khó khăn do cắt giảm đầu tư công thực hiện chưa đồng bộ; (iv) các chính sách thuế
hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân gặp khó khăn trong điều kiện lãi suất cao, khó
tiếp cận vốn tín dụng dường như chưa đủ liều lượng để giúp thị trường tài sản hồi
phục. Như vậy, chính sách tài khóa vẫn chưa đóng vai trò tương xứng trong việc
giải quyết những vấn đề nội tại của nền kinh tế trong bối cảnh dư địa của chính
sách tiền tệ ngày càng bị thu hẹp. Do đó, cần có lộ trình thực hiện chính sách
tài khóa một cách linh hoạt, nhất quán, đặc biệt trong việc tái cấu trúc và cắt
giảm đầu tư công, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, tái cấu trúc và
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích mô hình đầu tư công – tư (PPP),..
nhằm lành mạnh hóa khu vực kinh tế Nhà nước.
-->
Nền
kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào hệ thống TCTD, tổng tài sản hệ thống
TCTD tương đương 192,86% GDP, dư nợ hệ thống TCTD tương đương 97,86%
GDP. Tuy nhiên, cơ cấu tổng tài sản
thay đổi theo hướng kém bền vững, và có yếu tố tăng “ảo” do các TCTD sử dụng
nhiều vốn vay mượn lẫn nhau (22,20% tổng tài sản)
|
1.1.
Quy mô phát triển của hệ thống ngân hàng
trong nền kinh tế
Tại
thời điểm 31/12/2011, tổng tài sản hệ thống TCTD đạt 4.897.774 tỷ đồng, tăng
17,64% so với 2010, tương đương 192,86%
GDP; dư nợ tín dụng đạt 2.484.780 tỷ đồng, tăng 13,32% so với 2010, tương đương
97,86% GDP, chứng tỏ thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển đồng đều, phụ
thuộc lớn vào hệ thống TCTD. Các tỷ lệ
này cao hơn nhiều so với các nước có trình độ phát triển tương đương trong khu
vực.
Năm
2011, toàn hệ thống TCTD đạt tốc độ tăng trưởng tài sản khá (tăng 17,64% so với
2010),tuy nhiên có sự phân hóa giữa các nhóm TCTD. Dẫn
đầu hệ thống về tốc độ tăng trưởng tài sản là nhóm NHTMCP, với tốc độ tăng
23,34% vượt xa chỉ số tăng trưởng chung toàn ngành (17,64%) và chiếm 46,70% tổng
tài sản toàn hệ thống. Tổng tài sản của nhóm NHTMNN tăng trưởng 15,23% so với
năm 2010, chiếm 39,11% tổng tài sản toàn hệ thống. Nhóm NHLD&NHNNg và nhóm
CTTC chỉ đạt mức tăng trưởng tài sản lần lượt là 9,12% và 3,15% so với năm
2010, chiếm 10,46% và 3,72% tổng tài sản
toàn hệ thống.
1.1.
Cơ cấu tổng tài sản và tổng nguồn vốn
1.1.1.
Cơ cấu tổng tài sản
Cơ
cấu tài sản của toàn ngành thay đổi theo hướng kém bền vững và có yếu tố tăng “ảo”. Hoạt
động vay, nhận tiền gửi và cho vay, đi gửi vốn lẫn nhau giữa các TCTD diễn ra
phổ biến. Tổng số dư tiền gửi tại các TCTD khác và cho vay các TCTD khác (khoản
mục bên tài sản có) tại thời điểm 31/12/2011 đạt 1.087.443 tỷ đồng, tăng 26,14%
so với cùng kỳ năm 2010. Đồng thời số dư tiền gửi của các TCTD khác và đi vay
các TCTD khác (khoản mục bên tài sản nợ) cuối năm 2011 đạt 1.043.870 tỷ đồng,
tăng 56,08% so với cùng kỳ năm 2010. Tỷ trọng tiền gửi và cho vay lẫn nhau giữa
các TCTD tăng từ 20,71% (năm 2010) lên 22,22% (năm 2011) tổng tài sản toàn hệ
thống. Nhóm NHTMCP, NHTM NN và nhóm NHLD&NHNNg có tốc độ tăng tài sản có
trên thị trường liên ngân hàng (TT2), lần lượt là 48,69%; 16,26% và 7,8% so với
năm 2010; nhóm CTTC&CTTC giảm 24% so năm 2010. Nếu loại trừ khoản tăng tài sản do việc vay gửi lẫn nhau giữa các TCTD
thì tổng tài sản toàn hệ thống năm 2011 chỉ đạt 4.193.298 tỷ đồng.
-->
Tỷ trọng dư nợ tín dụng
toàn hệ thống so tổng tài sản giảm. Năm 2011 dư nợ cho vay đạt 2.484.780 tỷ đồng,
tăng 292.120 tỷ đồng (13,32%) so với cuối năm 2010. Tuy nhiên tỷ trọng dư nợ
tín dụng so với tổng tài sản toàn hệ thống giảm từ 52,67% (năm 2010) xuống còn
50,73% (năm 2011).
Nhóm
NHTM NN vẫn chiếm ưu thế về thị phần tín dụng. Nhóm NHTM NN chiếm
thị phần lớn thứ 2 (39,11%) sau nhóm NHTM CP (46,75%) về tổng tài sản, nhưng lại
đứng đầu về thị phần tín dụng với 50,64%, trong khi nhóm NHTM CP chỉ chiếm
37,26% thị phần.
1.1.1.
Cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn các
TCTD có sự dịch chuyển theo hướng phụ thuộc nhiều hơn vào TT2 và huy động vốn
trên TT1 ngày càng khó khăn hơn. Tỷ trọng tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản
giảm từ 51,38% (năm 2010) xuống còn 48,87% (năm 2011). Trong khi đó, nguồn vốn
hình thành từ tiền gửi của các TCTD khác và đi vay các TCTD khác lại tăng từ
16,1% (năm 2010) lên 21,3% (năm 2011).
-->
Tốc
độ tăng trưởng vốn điều lệ chậm lại do năm 2011 hầu hết các TCTD đã đạt mức vốn điều lệ tối thiểu theo quy định. Vốn
điều lệ toàn ngành năm 2011 chỉ tăng 27,02%, trong khi năm 2010 tăng tới
40,60%. Trái ngược với xu hướng chung, năm 2011 một số chi nhánh NHNNg tiến
hành tăng vốn nhằm tăng cường năng lực tài chính, cạnh tranh với với các TCTD nội
địa, góp phần tăng mạnh vốn điều lệ của nhóm này (110,15%).
Source: Quan Làm Báo