Bên thắng cuộc – Chương III: Đánh tư sản

Quanlambao
Chương III: Đánh tư sản

Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.

“Chiến dịch X-2”

Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm
gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.

Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách “tư sản mại bản” bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu về “Chính sách hậu chiến” được viết năm 1974 của Chính quyền Sài Gòn, trong đó có phần ánh giá vai trò lũng đoạn thị trường của các “vua” người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của Chiến dịch X-2 lúc đầu được định là 5 giờ sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc trong “hợp đồng tác chiến”, tin tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ khuya ngày 9-9-1975. Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đã được điều động áp át các mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây áp lực về dư luận118.

Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”. Tài liệu đã dẫn viết tiếp: “Phản ứng của địch nói chung là yếu. Tư sản mại bản đối phó chủ yếu bằng cách phân tán tài sản cho bà con thân thuộc. Số đã bị bắt thì tuy hoang mang, sợ sệt nhưng lại tiếc của nên ngoan cố, không chịu khai ra của chìm, tiền bạc, hột xoàn”119.

Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.

Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9- 1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Trân, ủy viên thường vụ, cùng các lãnh đạo Quân quản như Nguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm.

Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng so với số chúng đã có thì chưa bao nhiêu. Vì vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát hơn nữa trong nhà chúng để truy vàng bạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần chúng, người làm công ở mướn phát động họ để phát hiện nơi giấu cất”. Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng quá cao, chính quyền đã “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường, nhất là thị trường bột ngọt121.
Đổi tiền

Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ

Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.

Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.

Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi 100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.

Chập tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư lệnh thành huy động 17.921 bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất cả được đưa đến các quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao nhiệm vụ gì. Họ phải kê khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người và từ đó, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2 giờ sáng ngày 22-9-1975, họ được triển khai xuống các “bàn đổi tiền”.

Theo kế hoạch, đúng 5 giờ sáng, mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất. Tuy nhiên, “do điều động một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài liệu xuống tận các ‘bàn’, nhân sự lại chỉ được tập huấn vội, trong khi lại phải kê khai và xét duyệt mất nhiều thời gian, nên công tác kê khai, đăng ký cho đến 11 giờ ngày 22-9-1975 vẫn chưa xong. Trước tình đó, Ban thu đổi Thành phố quyết định kéo dài thời gian đăng ký kê khai tới 21 giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận coi đây là khâu quan trọng nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền. Đến ngày 23-9-1975, các nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào nhưng do tình hình phức tạp, đồng bào vẫn kéo tới đăng ký kê khai với nhiều lý do: hai ba hộ, trong một nhà [hộ ghép] chỉ mới hưởng được tiêu chuẩn của một hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên đổi tiền làm không kịp… Trong tình hình đó, Ban thu đổi tiền phát hiện được âm mưu phân tán tiền của tư sản nên quyết định chấm dứt việc đăng ký kê khai tại bàn”124.

Có những sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông báo đổi tiền mới giật mình vì không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm ngày sau, Chính phủ đã phải lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có sỹ quan từ trại cải tạo đã được đưa về tận nhà để chỉ cho gia đình nơi giấu tiền.

Quyết định đổi tiền được báo Sài Gòn Giải Phóng coi là để kết thúc “30 năm sống dơ và chết nhục của đồng bạc Sà i Gò n”125. Đồng tiền Sài Gòn bắt đầu được phát hành ngà y 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho nhiều tội lỗi126. Ba ngà y sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài Gòn viết: “Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhận dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang”127.

Không biết “tủi nhục” đã mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.
Kể từ sáng 23-9-1975, những ai còn đồng bạc của chính quyền Sài Gòn cũ mà chưa đăng ký thì coi như hết giá trị. Sáng sớm ngày 23-9-1975, ông Phạm Văn Tư chở vợ, bà Võ Thị Mai, từ thị trấn Sông Mao, Hải Ninh, Bình Thuận vô Phan Thiết sinh. Vừa rạng sáng thì xe ông bị chặn lại. Du kích cho biết là có lệnh không cho bất cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi thấy một bà bầu đang ôm bụng, họ hội ý rồi cho đi.

Đưa vợ vào nhà bảo sanh xong, để cô con gái Phạm Thị Mai Hoa128, năm ấy lên tám tuổi ở lại, ông Tư nhanh chóng quay về nhà. Do thường xuyên cần tiền cho trại cưa hoạt động nên khi ấy nhà ông có tới ba bao tải tiền mặt trị giá gần 7.000 lượng vàng. Đến nhà, ông Tư phân tán tiền định nhờ bà con mỗi người đổi giùm một ít nhưng kế hoạch bị bại lộ. Du kích bao vây nhà ông, bắc loa tuyên bố: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Hôm sau, những bao tiền đó bị ném tung ra, bay trắng cả vườn.

Ông Phạm Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị trấn Sông Mao, nên khi ở Sài Gòn, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương bắt đầu quản lý trại cưa của ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Ký, mua lại trại cưa này năm 1964, khi “Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu rừng, dân kinh doanh liên quan đến gỗ phải đi dây để không làm mất lòng hai phía. Chiến tranh càng lan rộng, thị trấn Sông Mao trở nên nhộn nhịp khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, công việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.

Vào những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Ký ,người đã chạy khỏi Trung Quốc năm 1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ gì từ bỏ một sản nghiệp đã gây dựng cả cuộc đời, không dễ gì ra đi không biết nơi đến thế nào với bảy người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt Cộng mà ông Tư gặp trong rừng cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn pin, đá lửa, thuốc ký ninh, họ đã trấn an ông rằng ông vẫn được tiếp tục làm ăn như cũ. Khi những người có máu mặt trong vùng lặng lẽ tới Phan Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn ở lại. Ngày 10-9-1975, Chính quyền ập vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, vòng bi trong nhà ông và tuyên bố quản lý xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ý thức được là tài sản của ông đang bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang xuống xưởng một ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người thợ chặn lại: “Trại cưa này không còn là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông không được đến đây nữa”129. Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông từ từ méo đi. Hơn mười ngày sau thì xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như phát điên. Cô em vợ nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài bìa ruộng, nhìn thấy anh rể mình cứ cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết một mình lặng lẽ khóc.

Ở Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tri Phương Trần Kiêm Đoàn130 được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn trường Đồng Khánh, dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội. Trước khi đi, Thành đoàn ra lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày, sẵn sàng chiến đấu”.

Ông Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài Gòn nổi dậy? Tới 3 giờ sáng thì mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi còn trẻ, hào hứng với những cái mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị bằng 500 đồng tiền cũ cũng có cái gì đó tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành nhiệm vụ”. Nhưng, tới trưa, theo ông Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu gào thất vọng. Ba giờ chiều, tôi tranh thủ về nhà, thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước mắt lưng tròng: Anh! Mình trắng tay rồi!”. Mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa 100 nghìn tiền Sài Gòn trong khi tiền mặt trong nhà vẫn còn tới gần mười triệu. Không chỉ nhà ông Đoàn, nhiều gia đình buôn bán ở cửa Đông Ba, hàng xóm của ông, cũng đang kêu khóc.

Những người càng tin tưởng vào chế độ mới càng mất mát lớn hơn, vì khi chiến tranh kết thúc, họ đã đào vàng lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông Đoàn kể: “Tôi trở về Đại Nội. Một vị chỉ huy lực lượng đổi tiền biết chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi bao nhiêu cũng được nhưng phải chia 5:5. Về xóm coi có ai thì kêu họ đổi luôn’. Tôi về lấy tiền và móc nối với mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng được thật”.

Gần một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đã ký Nghị định “Đình chỉ vĩnh viễn 16 ngân hàng tư nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng thông báo việc “rút tiền tiết kiệm”, theo đó, “những người có trương mục dưới một triệu có thể rút dần tiền về, số trung bình mỗi nhân khẩu có thể rút là 10 nghìn đồng/tháng”, còn những trương mục trên hai triệu “sẽ được ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”.

Trên thực tế, không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9- 1975.

Cũng trong ngày 3-9-1975, Ngân hàng Quốc gia tuyên bố “Công khố phiếu không còn giá trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đã mang tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lý tài sản của toàn dân, không lý gì và không có quyền lấy tiền nhân dân trả nợ thế cho Nguyễn Văn Thiệu”131.

Người dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ lấy kìm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai lường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như… đổi tiền. Nếu như “đánh tư sản mại bản” chỉ liên quan đến mấy trăm gia đình, thì đổi tiền và chính sách mới về số tiền gửi cũ trong các ngân hàng liên quan đến mọi người. Tiền bạc cũng giúp những người như ông Đoàn hiểu thêm về con người trong chế độ mới.

“Gian thương”

Tháng 8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột ngọt, tăng vọt. Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối các phương tiện truyền thông, đã cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư bản”. Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt đã làm cho đồng bào nhận rõ bọn trùm gian thương đầu cơ tích trữ”.

Không chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng 6-1975, một ký muối bột giá bảy mươi đồng, đến tháng 8-1975, giá đã lên tới 300 đồng một ký; một viên đá lửa đỏ, giá tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau đã lên đến sáu mươi đồng; giá một chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100 đồng; một bộ vỏ, ruột xe Honda tăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày 30-4-1975, một ký bột ngọt giá chỉ 3.000- 3.500 đồng, đến tháng 8-1975 đã tăng lên 17.000-18.000 đồng.

Ngay trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đã có bài “điều tra”, khẳng định: Nói bột ngọt khan hiếm là vì “đã đưa hết ra Bắc” là một “luận điệu tuyên truyền ác ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận: “Bọn gian thương chứ không ai hết. Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao động như thế quen rồi”. Cũng theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn trong bài báo này thì, “tội ác của bọn chúng, phải tử hình mới thoả mãn ý chí của nhân dân”. Ở các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng có tới “hơn năm mươi tay gộc tư sản mại bản đã bị bắt giữ”.

Tài liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam, đăng trên các báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại bản132. Để phân biệt tư sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam Lộc, ủy viên Tuyên-Văn- Giáo của Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở đây ta không đi sâu vào giải thích danh từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc đại để là những người bỏ vốn ra kinh doanh vừa có lợi cho họ vừa có lợi cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực kinh tế chính trị của ngoại bang hay tay sai của ngoại bang”133.

Khi bị Tòa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư sản mại bản”, trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đã bị xử “hai mươi năm tù, tịch thu toàn bộ tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn kết luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy] gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao Ngụy thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho chiến tranh Việt Nam Hóa của Mỹ đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu tư khai thác mỏ dầu ở thêm lục địa Việt Nam. Quy đã suy nghĩ và hành động như một tên xâm lược Mỹ với ý thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền Nam để duy trì chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đã không mơ hồ về mưu đồ của đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của nhân dân ta. Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng làm đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc lột của y phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới”134.

Cũng với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư sản mại bản” Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm mưu xảo quyệt” của “đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy quyền”135. Tiến trình cơ giới hóa của nền nông nghiệp miền Nam được Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua viện trợ Mỹ về nông nghiệp, chúng tìm cách tạo ra cảnh phồn vinh giả tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ ra khỏi ảnh hưởng của Cách mạng”136. Phiên tòa diễn ra theo thủ tục đặc biệt. Cho dù, “với bản chất ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung tìm cách nói quanh co để che lấp phần nào tội trạng của y”137, nhưng mọi lập luận kể cả của bào chữa viên nhân dân đều bị “tòa bác bỏ”.

Những “tên tư sản mại bản” khác như Lý Sen, kinh doanh sắt thép, Trương Dĩ Nhiên, “nhập cảng và sản xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều lần lượt lãnh án tù. Người dân Sài Gòn khi ấy mới chỉ nghe qua Marx-Lenin, chưa được trang bị “trình độ lý luận” để hiểu về “tích lũy giá trị thặng dư thông qua bóc lột sức lao động”, để hiểu vì sao một người mua bán máy nông cơ như Lưu Trung lại liên quan đến một âm mưu sâu xa “làm dư ra lực lượng lao động nông thôn để cho Chính quyền Sài Gòn bắt lính”.

Chính quyền Cách mạng đánh giá: “Nhìn chung, các tầng lớp quần chúng cơ bản, tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều phấn khởi và tán thành việc đánh tư sản mại bản vì ai cũng căm thù tầng lớp tư sản mại bản hại dân, hại nước”138.

Những đánh giá ấy không dựa trên bất cứ một kết quả thăm dò dư luận nào mà chủ yếu căn cứ vào những phát biểu của lãnh đạo Thành. Theo ông Mai Chí Thọ: “Trong giới nghèo lao động có dư luận bàn tán cộng sản lấy tiền nhà giàu cho nhà nghèo”139.

Trước Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu sỏ, đã mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và một tự sát” 140. Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt”141.

Năm 1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày 10-9-1976, vợ chồng nhà tư sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt “trong lúc đang dồn tiền và của quý vào 8 va li để chạy trốn”. Sáng sớm hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt, “các lực lượng quân đôị , an ninh võ trang đã bắ t giữ nhiều tên tư sả n maị bản lũng đoaṇ, đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường” như Lý Hơn, Lâm Huê Hồ , Dương Hả i, Trang Triṇ h Nguyên, Mã Tuyên, Trầ n Thanh Hà , Trầ n Liêṭ Hồ ng, Lý Hấ n. Ngay sau khi bắt giữ các nhà tư sản, chính quyền lập tức trấn áp trên diện rộng về mặt dư luận.

Sá ng 11-9-1976, hà ng ngà n ngườ i Hoa taị Chợ Lớ n đã được chính quyền huy động cho một cuộc biểu tình được báo chí mô tả là “sôi sục căm phẫn tố cáo tội ác của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ bài trừ tận gốc”. Tối cùng ngày, gầm ba mươi cuộc mít tinh đã được tổ chức ở nhiều nơi trong thành phố.

Sài Gòn lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí thế cách mạng”.

Chính một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại bản Hoa kiề u cà ng già u bao nhiêu thı̀ chúng tôi cà ng cơ cực bấ y nhiêu. Phả i trừ hế t boṇ nà y, ngườ i Hoa mớ i có thể số ng yên ổ n và haṇ h phúc”. Họ đòi “chá nh quyề n cá ch maṇ g nghiêm khắ c trừ ng tri ̣boṇ tư sả n maị bả n luñ g đoaṇ , đầ u cơ tıć h trữ , phá rố i thi ̣trườ ng, là m già u trên xương má u nhân dân”142. Những hoạt động quần chúng này, không chỉ lý giải cho các hành vi bắt bớ mà còn chuẩn bị dư luận cho một chính sách mới sắp sửa ban hành.

“Thể hiện ý chí, tình cảm và nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta”, trong kỳ họp thứ nhất khóa VI, “trên cơ cở hoàn toàn toàn thành bản báo cáo chính trị của đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”, Quốc hội chung cả nước đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Hoà n thà nh thố ng nhấ t nướ c nhà , đưa cả nướ c tiế n nhanh, tiế n maṇ h, tiế n vữ ng chắ c lên chủ nghıã xã hôị . Miề n Bắ c phả i tiế p tuc̣ đẩ y maṇ h sự nghiêp̣ xây dựng chủ nghıã xã hôị và hoà n thiêṇ quan hệ sả n xuấ t xã hôị chủ nghıã ; miề n Nam đồ ng thờ i tiế n hà nh cả i taọ xã hôị chủ nghıã và xây dựng chủ nghıã xã hôị ”143.

Ngà y 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã ký “Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp tư bả n tư doanh ở miề n Nam”. Theo tuyên bố này: “Chıń h phủ chủ trương xây dựng nề n kinh tế xã hôị chủ nghıã trong cả nướ c ta và tổ chứ c cho nề n kinh tế ấ y thố ng nhấ t trong cả nướ c; xó a bỏ dầ n dầ n nhữ ng sự khá c biêṭ của mỗi miề n: taọ ra nhữ ng cơ sở kinh tế cơ bả n cho nề n kinh tế đôc̣ lâp̣ , không bi ̣phụ thuôc̣ và o nướ c ngoà i; tổ chứ c laị lao đôṇ g và taọ ra môṭ sự phân phố i mớ i công bằ ng, bả o đả m đờ i số ng nhân dân, nhấ t là nhân dân lao đôṇ g; xó a bỏ moị bấ t công trong xã hôị và lố i là m ăn gian dố i, phi phá p”.

Cho dù đòi “xó a bỏ tư sả n maị bả n và nhữ ng tà n dư bó c lôṭ phong kiế n” ở miền Nam, trong giai đoạn này, chính quyền vẫn chủ trương “sử dụng những nhà tư sản có vố n liế ng, có kỹ thuâṭ , nhữ ng ngườ i là m ăn riêng lẻ , cả nhữ ng ngườ i buôn bá n nhỏ ”. Thời gian đầu, các nhà tư sản nhỏ vẫn có thể tự mình kinh doanh trong một số ngành nghề nhất định nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của mình thành công tư hợp doanh144. Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các ngành nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh”145 rất hạn chế.

Theo bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ đều phải “do nhà nướ c và cá c tổ chứ c quầ n chúng chiụ trá ch nhiêṃ”. Nhà nước bắt đầu độc quyền “nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong nướ c và hầ u hế t hà ng hó a thiế t yế u”. Nhà nướ c sẽ “nắ m hầ u hế t xuấ t nhâp̣ khẩ u và cả bá n buôn trong nướ c”. Nhữ ng tư nhân là m thương nghiêp̣ “sẽ được choṇ loc̣ và sử duṇ g môṭ phầ n là m đaị lý cho mâụ dic̣ h quố c doanh; cò n nhữ ng ngườ i khá c, nhà nướ c sẽ giúp đỡ chuyể n sang sả n xuấ t”. Bản tuyên bố viết: “Dướ i chế độ ta, thà nh phầ n kinh tế quố c doanh giữ điạ vi ̣lãnh đaọ . Đố i vớ i công thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, kinh tế quố c doanh có trá ch nhiêṃ hướ ng dẫn, giúp đỡ … đi dầ n từ ng bướ c lên chủ nghıã xã hôị thông qua con đườ ng cả i taọ ”.

Bản tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang của Tổ quố c, cá c nhà tư bả n tư doanh hãy nhâṇ rõ nhiêṃ vụ lic̣ h sử lúc nà y, nhâṇ rõ con đườ ng phá t triể n tấ t yế u của dân tôc̣ ta, nhâṇ rõ tiề n đề xá n laṇ của Tổ quố c Viêṭ Nam, mà tiế p thu tố t sự cả i taọ xã hôị chủ nghıã ”. Đồng thời tuyên bố khuyến cáo: “Cùng vớ i nhân dân lao đôṇ g đi lên theo con đườ ng ấ y, cá c nhà tư bả n sẽ có cơ hôị tự cả i taọ mıǹ h trở thà nh ngườ i đứ ng trong hà ng ngũ đaị gia đıǹ h dân tôc̣ Viêṭ Nam. Đó là con đườ ng mở ra môṭ tương lai tố t đep cho bả n thân mıǹ h và cho con cháu”.

Mãi tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã mang tên Hội trường Thố ng Nhấ t, Chính quyền mới tổ chức Hôị nghi ̣Liên tic̣ h Ủ y ban Măṭ trâṇ và cá c đoà n thể cấ p trung ương và thà nh phố để phổ biế n bả n tuyên bố ngày 25-9-1976. Không phải là những người cộng sản từ Hà Nội vào, đoàn chủ tịch hội nghị gồm: Luâṭ sư Nguyễn Hữ u Tho, khi ấy là phó chủ tic̣ h nướ c kiêm chủ tic̣ h Ủ y ban Trung ương Măṭ trâṇ Dân tôc̣ Giả i phó ng Miề n Nam Viêṭ Nam; Hoà ng Quố c Viêṭ , chủ tic̣ h Tổ ng Công đoà n Viêṭ Nam; Luâṭ sư Triṇ h Đıǹ h Thả o, chủ tic̣ h Ủ y ban Trung ương Liên minh cá c Lực lượng Dân tôc̣ , Dân chủ và Hò a bıǹ h Viêṭ Nam; Hò a thượng Thıć h Minh Nguyêṭ … Trưở ng ban Cả i taọ Công thương nghiêp̣ tư doanh Trung ương, ông Nguyễn Văn Trân, bı́ thư Trung ương Đả ng, người được bổ sung vào Trung ương Cục trước khi Sài Gòn sụp đổ, cũng có mặt trong hội nghị.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đã đề ra chính sách hợp tình hợp lý đố i vớ i cá c nhà công thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, giúp cho họ thấ y rõ hơn con đườ ng tiế n lên của Cá ch maṇ g và taọ cho họ điề u kiêṇ đó ng gó p công sứ c cùng vớ i toà n dân xây dựng Tổ quố c Viêṭ Nam già u maṇ h, văn minh và haṇ h phúc, trong đó có quyề n lợi chıń h đá ng của họ và của con chá u họ”. Còn Trưởng ban Cải tạo Nguyễn Văn Trân thì ngắn gọn: “Bả n tuyên bố của Chıń h phủ đã mở ra môṭ tương lai tố t đep̣ , môṭ tiề n đề xá n laṇ cho các nhà tư sả n công thương nghiêp̣ ” 146.

Từ ngày 21-11-1976, giới công thương chỉ phải “đăng ký kinh doanh công thương nghiêp̣ và dic̣ h vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “cá c đơn vi ̣và hộ sả n xuấ t kinh doanh, dic̣ h vu”̣ đã khai trıǹ h và 93% số hộ nà y đã được chính quyền cấp quận “xét” cấp giấy chứng nhận “đã đăng ký kinh doanh”. “Nhiều người khai trıǹ h đúng đắ n (nhưng) cuñ g cò n khá nhiề u ngườ i, nhứ t là cá c hộ kinh doanh lớ n đề u khai trıǹ h thiế u, sai biêṭ xa vớ i tà i sả n họ có thâṭ . Môṭ số ngườ i tım̀ moị cá ch phân tá n tà i sả n nhiề u nơi, thâṃ chı́ có ngườ i dùng xe chở hà ng tẩ u tá n sang quâṇ khá c đã bi ̣bắ t quả tang cả ngườ i lẫn hà ng. Có ngườ i gây cả n trở , vu khố ng cá n bộ đi thẩ m tra hay dùng thủ đoaṇ mua chuôc̣ cá n bộ, trá o hà ng xấ u và o hà ng tố t”147.

Chính quyền đã gia hạn việc “đăng ký” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo rằng: “Nhữ ng hộ nà o đã được chá nh quyề n kêu goị , giá o duc̣ lợi ıć h chung xây dựng đấ t nướ c mà … vẫn cò n tiế p tuc̣ nhiề u lầ n nhưng không thấ y có thá i độ chố ng đố i, giấ u diế m, phân tá n, không chiụ khai trıǹ h bổ sung là tự mıǹ h tá ch khỏ i hà ng ngũ nhữ ng nhà công thương chấ p hà nh đúng chá nh sá ch của Nhà nướ c và bi ̣coi là bấ t hợp phá p”148.

Sau khi kê khai, các hộ kinh doanh vẫn được cấ p giấ y chứ ng nhâṇ đã đăng ký kinh doanh và vẫn hoaṭ đôṇ g gần như bıǹ h thườ ng. Nhưng kể từ đây, ranh giới của một nhà tư sản dân tộc với “gian thương phá rối thị trường, phá hoại chủ trương” bắt đầu trở nên mong manh, nhất là đối với một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân”. Một trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và quyết liệt hơn là ngành giao thông vận tải.

Trước 30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên doanh vận tải ô tô chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận tải ô tô là 1%, tiểu chủ hơn 95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các tỉnh phía Nam từng đánh giá: “Trong lực lượng tiểu chủ, đại bộ phận có lòng yêu nước, có cảm tình với Cách mạng, nhiều người đã là cơ sở tốt nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào thành phố, ủng hộ vật chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo lời kêu gọi của Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đã tự nguyện mang hàng trăm xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích địch ở phía Nam”149. Những công lao được ghi nhận này đã không giúp họ giữ được nghề nghiệp và xe cộ.

Ngay từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra chỉ thị: “Công tác cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với lực lượng vận tải tư doanh ở miền Nam đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp”150. Một thứ trưởng của Bộ Giao thông được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ, kể cả xe của các “quần chúng yêu nước”, đều bị sung công. Đây không chỉ là một chính sách riêng lẻ của chính quyền Việt

Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, phải do nhà nước thống nhất quản lý.

Từ tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đã “trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân151. Nói là mua và trưng mua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô”152.

Trước ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thành153 là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung. Cuộc sống gia đình ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và cuối tuần thường đi mua sắm”. Sau “giải phóng”, gia đình ông phải vạ vật trong những chuổi ngày khó khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng dầu, bơm vá”154.

Nhưng sự thiếu thốn chưa phải là tất cả những gì mà những người kinh doanh trong ngành phải chịu đựng. Từ lái xe, năm 1973 ông Thành mua được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng155. Nếu thời cuộc không thay đổi, công việc kinh doanh thuận lợi có thể giúp ông Thành lập được một hãng xe. Nhưng cũng như các chủ xe khác, ông Thành đã phải “bán” xe cho Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe thì được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định. Ai không biết lái xe thì coi như mất xe… Có những ông chủ hãng xe 30-40 chiếc, cai quản hàng trăm lái, phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không mua được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin mãi mới được làm phụ xe, rồi còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ý”156.

“Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”

Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.

Lý do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày 23-3-1978 của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương nghiệp, bằng hoạt động đầu cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt đã lũng đoạn kinh tế và thị trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối việc thu mua của nhà nước, gây cảnh hỗn loạn thị trường để làm giàu bất chính, thậm chí tung hàng giả ra thị trường để gạt gẫm và bóc lột người tiêu dùng. Họ dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt móc hàng của xí nghiệp, kho tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật kinh tế quốc gia, nhằm đục khoét kinh tế xã hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng và làm hư hỏng một số cán bộ nhân viên nhà nước, rồi qua
Source: Quan Làm Báo